Những chuyển biến tích cực trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát ở đảng bộ tỉnh Lào Cai
Lượt xem: 417
Trong những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy các cấp trong Đảng bộ đã nhận  thức đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát là để phòng ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, kịp thời xử lý kỷ luật; có tác dụng, ý nghĩa giáo dục và làm trong sạch tổ chức đảng. Từ đó cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở luôn coi trọng, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đầu của Đảng.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, ban hành các văn bản để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tiếp tục quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020; thông báo số 156-TB/TW, ngày 01/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa X); các quy định, quy chế, quyết định hướng dẫn của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của đảng, gắn với đẩy mạnh thực hiện nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn đảng; ngăn chặn , đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị số 23-CT/TU, ngày 08/11/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai “về lãnh đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra trong toàn Đảng bộ và hệ thống chính trị tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016-2020”;  Đề án số 01-ĐA/BCĐCCHC, ngày 12/9/2016 của Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính tỉnh ban hành quy trình thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề, thi hành kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của tổ chức đảng, cấp ủy, cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai, nhằm phát huy vai trò của công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng trong công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

Cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp đã đổi mới công tác kiểm tra, giám sát theo hướng tăng cường giám sát thường xuyên, nắm chắc tình hình địa bàn, kịp thời xử lý dứt điểm những vụ việc phát sinh nổi cộm ngay từ cơ sở; tăng cường trực tiếp làm việc với cấp ủy cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát để chỉ đạo, giải quyết; tập trung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, kể cả vi phạm cách cấp để chấn chỉnh, ngăn ngừa trong các lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp dễ xảy ra sai phạm như quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, tài chính tín dụng, công tác cán bộ…Cấp ủy, UBKT các cấp khi kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng thường gắn với kiểm tra, giám sát đối với người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đơn vị trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Từ đầu nhiệm kỳ 2015-2020 đến nay, cấp ủy các cấp đã tiến hành kiểm tra đối với 3.308 tổ chức và 6.171 đảng viên; qua kiểm tra đã phát hiện 65 tổ chức và 07 đảng viên có khuyết điểm vi phạm; phải thi hành kỷ luật 07 đảng viên. Cấp ủy các cấp giám sát đối với 1.772 tổ chức và 4.647 đảng viên; qua giám sát đã phát hiện 13 tổ chức và 01 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; Cấp ủy các cấp thi hành kỷ luật đối với 06 tổ chức và 556 đảng viên.

Ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ tỉnh đã chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát; bám sát vào sự chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh và tình hình thực tế tại địa phương để tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, trong đó xác định nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra đảng viên kể cả đảng viên là cấp ủy viên cùng cấp và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm. Cụ thể UBKT các cấp đã kiểm tra 327 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (trong đó có 185 cấp ủy viên các cấp), qua kiểm tra kết luận có 285 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật là 81 đảng viên; kiểm tra đối với 130 tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, kết luận có 100 tổ chức đảng có vi phạm, trong đó vi phạm phải đến mức thi hành kỷ luật là 02 tổ chức đảng. Đồng thời UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra đối với 1.456 tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và 143 tổ chức đảng cấp dưới về việc thi hành kỷ luật; Giám sát đối với 1.670 đảng viên (1.028 cấp ủy viên các cấp), qua giám sát phát hiện và chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 04 đảng viên; giám sát 1.497 tổ chức, phát hiện và chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 02 tổ chức; thi hành kỷ luật đối với 168 đảng viên (66 cấp ủy viên các cấp); Giải quyết tố cáo đối với 47 đảng viên (28 cấp ủy viên) và 03 tổ chức; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với 02 trường hợp; tiếp nhận và xử lý 835 đơn thư tố cáo, phản ánh, kiến nghị đề nghị; kiểm tra 155 tổ chức đảng về thu chi ngân sách và 1.622 tổ chức về thu nộp và sử dụng đảng phí.

Qua công tác kiểm tra, giám sát từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay trong Đảng bộ tỉnh cho thấy số đảng viên bị thi hành kỷ luật có xu hướng tăng. Năm 2016 là 134 đảng viên và 02 tổ chức đảng bị  thi hành kỷ luật; năm  2017 là 166 đảng viên; năm 2018 là 197 đảng viên và 01 tổ chức; năm 2019 là 227 đảng viên và 03 tổ chức bị thi hành kỷ luật. Nội dung vi phạm chủ yếu và chiếm tỷ lệ lớn là vi phạm về chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình: 346; những điều đảng viên không được làm: 135; thiếu trách nhiệm buông lỏng lãnh đạo: 98; đất đai, tài nguyên, khoáng sản: 55; … đặc biệt năm 2019 số đảng viên vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình tăng đột biến tại Đảng bộ huyện Sa Pa (Năm 2018 thi hành kỷ luật 18 đảng viên, năm 2019 thi hành kỷ luật 91 đảng viên, trong đó có 77 đảng viên vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình). Việc xử lý kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm cơ bản bảo đảm đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc và quy trình thủ tục. Kết luận rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, chú ý xem xét các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng để xử lý kỷ luật. Tuy nhiên vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình chiếm tỷ lệ lớn và có xu hướng gia tăng; nguyên nhân là hiện nay hình thức xử lý còn nhẹ (sinh con thứ ba bị kỷ luật khiển trách, sinh con thứ tư bị cảnh cảo hoặc cách chức nếu có chức vụ); tính thống nhất và đồng bộ giữa kỷ luật đảng và kỷ luật nhà nước còn chưa phù hợp (thời hiệu xử lý kỷ luật của công chức), do vậy nhiều trường hợp sau khi bị xử lý kỷ luật đảng, khi sang xử lý kỷ luật về mặt nhà nước thì hết thời hiệu; một số trường hợp bị xử lý kỷ luật đảng sau đó đề nghị xử lý về mặt chính quyền xong không xử lý được vì không rõ đối tượng là công chức hay viên chức (Đại biểu HĐND xã).

Từ kết quả trên cho thấy công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ tỉnh đã được các cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu hiệu quả. Cấp ủy các cấp đã chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hàng năm; kịp thời triển khai, quán triệt các văn bản của đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát; ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; thường xuyên cho ý kiến đối với hoạt động của UBKT theo quy định; quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy UBKT, cơ quan UBKT, chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra; các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp ủy đạt chất lượng và hiệu quả, đặc biệt là thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát. Qua kiểm tra, giám sát đã chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, xử lý kịp thời những vi phạm, có tác dụng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, ngăn ngừa vi phạm, qua đó góp phần ổn định tình hình chính trị thực hiện hoàn thành mục tiêu nghị quyết Đại hội lần thứ XV của tỉnh.

UBKT các cấp đã tập trung thực hiện toàn diện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ của cấp ủy giao. Việc chỉ đạo của UBKT các cấp đã quyết liệt hơn, tăng cường giám sát thường xuyên, tăng cường kiểm tra đảng viên kể cả cấp ủy viên cùng cấp và tổ chức chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, nhất là các lĩnh vực nhạy cảm; chủ động tham mưu, đề xuất cấp ủy, tích cực tham gia giải quyết kịp thời những đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến cán bộ đảng viên; kiên quyết xử lý và tham mưu giúp cấp ủy xử lý những vi phạm đã đến mức phải thi hành kỷ luật đảm bảo đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc thi hành kỷ luật.

Công tác kiểm tra, giám sát giúp các tổ chức đảng và đảng viên nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ, uốn nắn để điều chỉnh; qua kiểm tra phát hiện vi phạm, xử lý vi phạm để giữ vững kỷ cương trong Đảng góp phần ổn định tình hình chính trị của địa phương.

Có thể nói trong thời gian qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã  rút ra một số bài học kinh nghiệm:

Một là, không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới, tăng cường nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra giám sát của cấp ủy; tăng cường cán bộ kiểm tra các cấp tương xứng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được giao; thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng trong giai đoạn hiện nay.

Hai là, từ thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát trong những năm qua cho thấy, nơi nào cấp ủy, UBKT coi trọng và làm tốt công tác kiểm tra, giám sát thì ở đó việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở địa phương đơn vị đạt kết quả tốt, nội bộ đoàn kết thống nhất, kỷ cương được giữ vững, lệch lạc tiêu cực và vi phạm được đẩy lùi.

Ba là, tổ chức thực hiện tốt giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát, “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động phòng ngừa vi phạm, nhất là các vi phạm về nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội, gây mất đoàn kết nội bộ, cán bộ vi phạm phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống làm trong sạch nội bộ Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Bốn là, thường xuyên cải tiến, đổi mới phương pháp, phong cách công tác, quy trình kiểm tra phù hợp với tình hình thực tế, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra giám sát của Đảng.

Năm là, thực hiện tốt quy chế phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng giữa UBKT với các cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các ngành có liên quan để nắm chắc thông tin, thống nhất trong việc kết luận các vụ việc phức tạp.

Sáu là, phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật. Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên; đẩy mạnh công tác thi đua khen thưởng, coi công tác thi đua khen thưởng là động lực để thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn./.

 Tác giả: Kim Ánh Thép - UBKT Tỉnh ủy
Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập