Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra yêu cầu đổi mới, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tỉnh uỷ Lào
Cai đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng và Đề án số 16-ĐA/TU ngày 11/12/2020 “về nâng cao chất lượng, hiệu lực,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh
Lào Cai giai đoạn 2020 – 2025”. Để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu
lần thứ XIII của Đảng, Chương trình hành động và Đề án số 16 của Tỉnh uỷ, các
cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần nghiên cứu để nhận thức rõ
hơn một số vấn đề sau:
Hiệu lực của
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là việc chấp hành thực hiện các kết luận xử lý
sau kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của các đối tượng được kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng và các đối tượng có liên quan trong thời hạn quy định trên văn bản
kết luận, xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền. Việc chấp hành này của các đối
tượng càng khẩn trương, nghiêm túc thì hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát
càng cao. Ngược lại kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng không đạt yêu cầu,
kết luận xử lý thiếu chặt chẽ và thiếu tính khả thi là những nguyên nhân dẫn đến
hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát đạt thấp hoặc không có hiệu lực.
Hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hiểu theo nghĩa hẹp
là kết quả của một cuộc kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tổ chức với số
người tham gia, chi phí thấp nhất, thời gian ngắn nhất mà đạt được yêu cầu và
mục đich cao nhất của người ra quyết định kiểm tra, giám sát, nói cách khác là
phát hiện được trúng những vấn đề còn tồn tại, hạn chế, khuyết điểm, vi phạm
của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì
hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát là kết quả sau khi thực hiện các ý
kiến tham mưu, đề xuất và điều chỉnh của công tác kiểm tra, giám sát của các tổ
chức chức đảng, các kết quả đó đem lại hiệu quả cao trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Cụ thể như khi tiến hành kiểm tra việc
chấp hành hay kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của một tổ chức đảng thường mang
đến hiệu quả là: góp phần bảo đảm cho việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, củng cố tổ chức đảng, giải quyết khắc phục yếu kém, xây dựng đoàn kết nội
bộ rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo để đẩy mạnh toàn diện các mặt công tác của
địa phương, đơn vị, lập lại kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Hay tiến hành các vụ kỷ
luật, giải quyết khiếu nại kỷ luật, kiểm tra việc thi hành kỷ luật sẽ góp phần
giáo dục nâng cao nhận thức cho tổ chức đảng và đảng viên về kỷ luật đảng… Như
vậy, mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật càng cao thì
hiệu quả đối với công tác xây dựng đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị càng
lớn, tức là tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đến đâu,
đó chính là hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.
Tiêu chí
đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật
đảng phải toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội:
- Về chính trị: Việc vận dụng các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng phải góp phần
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Bảo đảm xây dựng đúng đắn và lãnh đạo, tổ chức thực hiện có kết quả đường lối,
chính sách, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở Đảng bộ
tỉnh. Góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, nhất là hệ
thống chính trị ở cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng
góp phần phòng ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn
chặn xảy ra vi phạm của các tổ chức đảng và đảng viên; giúp đảng viên và tổ
chức đảng thấy được ưu điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, sửa
chữa, khắc phục. Đồng thời tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện, xây dựng
đội ngũ cán bộ đảng viên có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có tính
chiến đấu cao, trung thành với mục đích lý tưởng của Đảng, gắn bó mật thiết với
nhân dân.
- Về xã hội: Việc vận dụng các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng phải góp phần ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo sự đoàn kết thống nhất trong hệ
thống chính trị, trong xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy và mở rộng dân chủ trong xã hội, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, đối với chế độ; chống mọi yếu kém, tiêu cực trong Đảng, bộ máy
nhà nước và toàn xã hội; ngăn chặn tình trạng mất đoàn kết, tranh chấp phức tạp
trong nội bộ nhân dân; tạo sự đồng thuận xã hội.
- Về kinh tế: Hiệu quả của việc thực hiện các giải pháp nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng phải
góp phần thực hiện đúng đường lối phát triển kinh tế của Đảng, xây dựng nền
kinh tế có hiệu quả, phát triển bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Qua kiểm tra, giám sát phát hiện những sơ hở, thiếu sót, khó
khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách để có yêu cầu, kiến nghị điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những cơ chế chính sách không còn phù hợp, đáp ứng yêu
cầu đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, công tác kiểm tra, giám
sát còn phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm về thời gian, chi phí nhân lực, vật lực.
Như vậy, kết
quả kiểm tra chưa phải là điều mà các tổ chức đảng – chủ thể kiểm tra, giám sát
mong muốn mà phải là hiệu qủa của những đề xuất tham mưu trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng. Việc phát hiện ra các khuyết điểm, vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên được kiểm tra, giám sát chỉ là những minh chứng để kết luận cho những kẽ hở
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, nhằm đề xuất với các cấp ủy,
tổ chức đảng có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh các nghị quyết, chỉ thị, quyết
định lãnh đạo, chí đạo của mình cho phù hợp với thực tiễn.
Kết quả,
hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là ba giai đoạn
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng có quan hệ
biện chứng với nhau. Kết quả kiểm tra là cơ sở để kết luận. đánh giá và đề xuất
xử lý những tồn tại hạn chế, khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên
được kiểm tra, giám sát – là điều kiện đảm bảo hiệu quả của công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng. Hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát chỉ đạt được
khi văn bản kết luận, xử lý sau kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng có nội dung
khả năng thực hiện, được triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đầy đủ, là
kết quả đạt được sau khi thực hiện các đề xuất điều chỉnh trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo thực nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy chế làm việc cao hơn
trước khi được kiểm tra, giám sát.
Để thực hiện
tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về đổi mới nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cần nghiên cứu
thực hiện một số nội dung sau:
Một là: Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sat, thi hành
kỷ luật đảng. Cấp uỷ các cấp phải lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát,
đề ra chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch về công tác kiểm tra, giám
sát trong từng giai đoạn nhất định; định kỳ, đột xuất kiểm tra việc tổ chức
thực hiện; nghe các tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị liên quan báo cáo kết quả
thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát để có ý kiến chỉ đạo, giải quyết
các khó khăn, vướng mắc; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cấp uỷ viên phụ
trách lĩnh vực, địa bàn hoặc các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp uỷ.
Hai là: Đổi
mới phương thức hoạt động kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra. Xây dựng chương trình kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn
khóa và hàng năm xác định nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát phù hợp với
yêu cầu lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng, địa phương,
đơn vị; kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, mở rộng giám sát trên các lĩnh vực; tăng
cường kiểm tra, giám sát đối với những người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phương pháp, quy trình kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật đảng, rút ngắn được thời gian nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết luận
kiểm tra, giám sát, quyết định thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng
viên, thu hồi tiền, tài sản thất thoát do sai phạm (nếu có).
Ba là: Đổi
mới công tác phối hợp. Cấp ủy các cấp ban hành quy chế phối hợp thực hiện công
tác kiểm tra, giám sát giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng, cơ quan chức
năng cùng cấp. Ủy ban kiểm tra, các cơ quan chuyên trách tham mưu giúp
việc cho cấp uỷ rà soát phát hiện các văn bản, quy định, hướng dẫn công tác
kiểm tra, giám sát, thanh tra hoặc có liên quan của Đảng, chính quyền Nhà nước,
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội để phát hiện các thiếu sót, điểm bất
hợp lý, chưa phù hợp để đề nghị điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với
yêu cầu thực tiễn. Lấy uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ làm trung tâm tham mưu, giúp
việc cho cấp uỷ và phối hợp với các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, đoàn
thể chính trị - xã hội cùng cấp trong tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát, thanh tra để đảm bảo hiệu quả, hiệu lực và tránh chồng chéo, gây phiền hà
cho đối tượng được kiểm tra, giám sát, thanh tra. Tăng cường việc trao đổi
thông tin giữa cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra với các tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan báo chí. Thực hiện minh
bạch, công khai hoá các kết luận kiểm tra, giám sát, thanh tra theo quy định để
cán bộ, đảng viên, nhân dân biết và tham gia giám sát, kiểm tra việc thực
hiện.
Bốn là: đổi
mới tổ chức bộ máy, cán bộ UBKT, cơ quan UBKT các cấp; tăng thẩm quyền; đào
tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí; luân chuyển; nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ kiểm tra các cấp (có trình độ chuyên môn cao về nhiều lĩnh vực tài chính, kinh tế, xuất nhập
khẩu; đầu tư, xây dựng, quản lý tài nguyên, khoáng sản, đất đai; công tác tổ
chức cán bộ; công tác quản lý hành chính; công tác tư pháp, điều tra, truy tố, xét
xử…)
Để tư tưởng
chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng về đổi mới, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, Đề án số
16-ĐA/TU ngày 11/12/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai “về nâng cao
chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật
Đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2020 – 2025” thực hiện đạt kết quả
cao, các cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần giữ vững nguyên tắc hoạt động của
Đảng, thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo “Chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu
quả”, phương châm “Công minh, chính xác, kịp thời”, đồng thời nghiên cứu, vận
dụng sát thực với yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và điều kiện
tình hình thực tiễn của tổ chức đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị./.