Đảng bộ tỉnh Lào Cai tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Lượt xem: 447

Trong những năm gần đây, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp trong Đảng bộ đã nhìn nhận đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra, giám sát là để phòng ngừa, kịp thời xử lý kỷ luật, ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có tác dụng, ý nghĩa giáo dục và làm trong sạch tổ chức đảng. Từ đó cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở luôn coi trọng, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Tỉnh ủy quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Kết luận số 72-KL/TW ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020; các quy định, quy chế, quyết định, hướng dẫn của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, gắn với đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo từ đầu các nhiệm kỳ 2010-2015; 2015-2020; 2020-2025 ban hành và tổ chức thực hiện Đề án 26 về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra của toàn Đảng bộ và hệ thống chính trị, giai đoạn 2011- 2015”; Chỉ thị số 23-CT/TU ngày 08/11/2016 “về lãnh đạo nâng cao chất lương, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra trong toàn Đảng bộ và hệ thống chính trị tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016 - 2020”; Đề án số 16-ĐA/TU ngày 11/12/2020 của Tỉnh ủy về “nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2021- 2025”.

Cấp ủy, UBKT các cấp đã ban hành và thực hiện nghiêm hệ thống các quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn, biểu mẫu trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; thường xuyên rà soát các quy chế, quy định, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo thẩm quyền để tổ chức thực hiện như: Đề án số 01 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quy trình thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề, thi hành kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của tổ chức đảng, cấp ủy, cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai; Quyết định số 238-QĐ/UBKTTU ngày 27/6/2014 của UBKT Tỉnh ủy ban hành quy trình tiến hành công tác và mẫu văn bản nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai; Quy định 1476 -QĐ/TU ngày 21/4/2020 Quy định về bộ quy trình thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề, thi hành kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của tổ chức đảng, cấp ủy, cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai (sửa đổi, bổ sung Đề án 01); Quyết định số 351-QĐ/UBKTTU ngày 31/3/2020 của UBKT Tỉnh ủy ban hành quy trình tiến hành công tác và mẫu văn bản nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai (Sửa đổi, bổ sung quy trình được ban hành kèm theo quyết định 238).

Cấp ủy, Uỷ ban Kiểm tra các cấp trong tỉnh chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm. Quá trình tổ chức thực hiện bám sát phương châm "Giám sát phải mở rộng", "Kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm", tập trung kiểm tra, giám sát các nhiệm vụ trọng tâm Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, XV và nghị quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2010-2015, 2015-2020 đề ra. Quan tâm thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát thường xuyên; phân công các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ủy viên ban chấp hành, ủy viên ủy ban kiểm tra phụ trách, theo dõi các lĩnh vực, địa bàn, thường xuyên bám sát cơ sở nắm chắc tình hình hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hằng tháng báo cáo kết quả giám sát với cấp ủy, thường trực cấp ủy, thường trực UBKT, qua đó giúp cấp ủy, UBKT nắm chắc tình hình mọi mặt ở địa phương, cơ sở, phục vụ kịp thời công tác lãnh đạo, chỉ đạo; giúp tổ chức đảng và đảng viên có ý thức hơn trong việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên, cấp ủy viên, kịp thời phòng ngừa, chấn chỉnh, uốn nắn sai phạm từ khi mới có dấu hiệu hình thành.

Từ năm 2010 đến nay, cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ tỉnh đã tổ chức thực hiện kiểm tra đối với 5.124 lượt tổ chức đảng và  11.252 đảng viên (trong đó có 3.123 cấp ủy viên các cấp); giám sát chuyên đề đối với 3.387 lượt tổ chức đảng và 7.662 đảng viên (trong đó có 2.295 cấp ủy viên các cấp). Các cơ quan tham mưu giúp việc cấp tỉnh, cấp huyện tổ chức kiểm tra 1.491 lượt tổ chức và 122 đảng viên, giám sát 500 lượt tổ chức đảng và 258 đảng viên; thi hành kỷ luật 08 tổ chức đảng với hình thức kỷ luật khiển trách; thi hành kỷ luật đối với 1.160 đảng viên (khiển trách 799 đảng viên, cảnh cáo 264 đảng viên, cách chức 56 đảng viên, khai trừ 41 đảng viên).

UBKT các cấp đã chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, sát; bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, tình hình chính trị địa phương để tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, trong đó xác định nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm và nhiệm vụ giám sát, cụ thể: UBKT các cấp đã kiểm tra đối với 284 tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, qua kiểm tra kết luận 187 tổ chức đảng có vi phạm, đến mức phải xử lý và đã xử lý kỷ luật 03 tổ chức đảng. Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 713 đảng viên (trong đó có 410 đảng viên là cấp uỷ viên các cấp), qua kiểm tra kết luận 580 đảng viên có vi phạm, bằng 81,34% so với số đảng viên được kiểm tra; đến mức phải xử lý kỷ luật và đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức 217 đảng viên bằng 37,41% so với tổng số đảng viên vi phạm;  Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 3.094 tổ chức đảng cấp dưới, kết quả có 2.910 tổ chức đảng (chiếm 94,1% so với tổng số tổ chức đảng được kiểm tra) ban hành được chương trình, kế hoạch kiểm tra và thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra; Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng  đối với 385 tổ chức đảng, kết quả có 368 tổ chức (chiếm 95,5% so tổng số tổ chức đảng được kiểm tra) thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục trong thi hành kỷ luật; còn 17 tổ chức đảng (chiếm 4,5%) chưa làm tốt việc thi hành kỷ luật trong Đảng; Kiểm tra tài chính Đảng đối với 292 tổ chức đảng, qua kiểm tra kết luận có 290 (chiếm 97,3%) tổ chức thực hiện tốt nội dung kiểm tra, còn 08 tổ chức (chiếm 2,7%) có sai phạm và phải thu hồi số tiền là 74.628.000 đồng; kiểm tra việc thu, nộp, quản lý và sử dụng đảng phí  đối với 3.181  lượt tổ chức, thu hồi số tiền vi phạm 105.223.000 đồng; UBKT các cấp giám sát chuyên đề đối với 3.070 tổ chức đảng và 4.047 đảng viên, qua kiểm tra kết luận 3.002 tổ chức đảng (chiếm 97,7%) và 3.992 đảng viên (chiếm 98,6%) thực hiện tốt nội dung giám sát, 68 tổ chức có vi phạm và phải chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 12 tổ chức đảng; 29 đảng viên có vi phạm và phải chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 18 đảng viên; thi hành kỷ luật đối với 340 đảng viên (khiển trách 128 đảng viên, cảnh cáo 95 đảng viên, khai trừ 117 đảng viên), giải quyết tố cáo đối với 04 tổ chức đảng và 171 đảng viên, đã giải quyết đúng thời gian quy định đối với 04 tổ chức (tố đúng và đúng 1 phần 4 tổ chức, phải xử lý kỷ luật 1 tổ chức) và 171 đảng viên, kết luận đúng có vi phạm 81 đảng viên, trong đó phải thi hành kỷ luật và đã thi hành kỷ luật 34 đảng viên.

Qua kiểm tra, giám sát đã giúp cấp ủy đánh giá đúng tình hình thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, đảng viên thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm; phát hiện, biểu dương những điển hình tốt; yêu cầu khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, đồng thời đề xuất, kiến nghị các biện pháp để giải quyết kịp thời khó khăn vướng mắc đề ra giải pháp để tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn các chủ trương nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Việc giải quyết tố cáo bảo đảm đúng quy trình, kết luận rõ đúng sai, giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng thấy rõ khuyết điểm, vi phạm phải sửa chữa, rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục. Qua đó bảo vệ được cán bộ, minh oan cho những trường hợp bị tố cáo sai. Việc thi hành kỷ luật được các cấp ủy quan tâm thực hiện nghiêm minh vừa để giữ nghiêm kỷ luật đảng vừa có tác dụng răn đe, giáo dục đảng viên nâng cao kỷ luật và tính tiền phong gương mẫu, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Việc xem xét thi hành kỷ luật cơ bản đảm bảo đúng thẩm quyền, vận dụng đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật trong Đảng (sau khi bị thi hành kỷ luật số đảng viên có đơn khiếu nại về kỷ luật đảng là 03 đảng viên chỉ chiếm 0,25% so với tổng số đảng viên bị thi hành kỷ luật), qua đó tạo sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; giúp cán bộ, đảng viên nhận thức rõ khuyết điểm, vi phạm; việc thi hành kỷ luật gắn với việc khắc phục hậu quả, kiện toàn tổ chức, thu hồi kinh tế, tài sản bị chiếm dụng, thất thoát nên có tác dụng tích cực trong giáo dục, ngăn ngừa sai phạm. Công tác giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với đảng viên được cấp uỷ và UBKT các cấp quan tâm xem xét giải quyết dứt điểm, công tâm, khách quan, đúng thời gian quy định, đúng nguyên tắc, quy trình của Đảng.

Việc thực hiện quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng giữa UBKT với các cơ quan ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu quả. Công tác phối hợp được thực hiện thường xuyên, đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan; tham mưu giúp Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng; xem xét, kết luận, xử lý những sai phạm liên quan đến đảng viên là cán bộ diện cấp uỷ quản lý theo quy định; xem xét, xử lý vi phạm sau kết luận thanh tra, kiểm tra; kiến nghị, đề xuất với Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cơ quan có thẩm quyền nhiều nội dung liên quan đến kinh tế, cơ chế, chính sách và quản lý tài chính, tài sản của Nhà nước; phối hợp, chỉ đạo các cơ quan chức năng thu hồi nộp ngân sách Nhà nước các khoản tiền sử dụng sai quy định, khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc phòng, chống tham nhũng, phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây dựng Đảng ở địa phương.

Cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ UBKT và cơ quan UBKT, xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra cho cán bộ làm công tác kiểm tra. Kịp thời bổ sung, kiện toàn UBKT Tỉnh ủy, UBKT các huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc và UBKT đảng uỷ cơ sở.

Từ kết quả trên cho thấy công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ tỉnh đã được các cấp ủy đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có nền nếp. Cấp uỷ các cấp chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm; kịp thời triển khai, quán triệt các văn bản của Đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức đảng thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; thường xuyên cho ý kiến đối với hoạt động của UBKT theo quy định của Điều lệ Đảng và quy chế làm việc; nghiêm túc tổ chức và chỉ đạo việc tổng kết, sơ kết công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo đúng quy định; quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT, cơ quan UBKT; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra. Các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp ủy đạt chất lượng và hiệu quả, so với nhiệm kỳ trước có nhiều ưu điểm nổi bật; đặc biệt đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát. Nội dung kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và cấp mình về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Qua kiểm tra, giám sát đã chỉ rõ ưu điểm, thiếu sót, khuyết điểm, xử lý kịp thời các vi phạm, có tác dụng tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, ngăn ngừa vi phạm, qua đó góp phần ổn định tình hình chính trị của địa phương.

UBKT các cấp đã chủ động thực hiện khá toàn diện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và nhiệm vụ cấp uỷ giao. Việc chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của UBKT Tỉnh ủy có nhiều nét đổi mới, chỉ đạo quyết liệt hơn, tăng cường giám sát thường xuyên, nắm chắc tình hình cơ sở, tập trung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm có trọng tâm, trọng điểm, nhất là đối với lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp. Các nhiệm vụ khác như kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, kiểm tra tài chính đảng được duy trì nền nếp; tăng cường giám sát thường xuyên, chủ động tham mưu, đề xuất với cấp uỷ, tranh thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn của UBKT cấp trên, tích cực tham gia giải quyết những điểm nóng, vụ việc nổi cộm; giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo; kiên quyết xử lý, tham mưu cấp ủy xử lý những vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật, việc thi hành kỷ luật bảo đảm đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, có tác dụng giáo dục, do vậy tình trạng khiếu nại kỷ luật đảng phải giải quyết giảm nhiều. Chất lượng, hiệu quả của các cuộc kiểm tra, giám sát được nâng lên; quy trình, hồ sơ thực hiện đúng quy định. Ngoài ra, UBKT các cấp tích cực, chủ động tham mưu giúp cấp uỷ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều 30, Điều lệ Đảng, là nòng cốt tham gia các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp ủy và thực hiện tốt nhiệm vụ cấp ủy giao.

Công tác kiểm tra, giám sát giúp các tổ chức đảng, đảng viên nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ; uốn nắn những lệch lạc để các đơn vị được kiểm tra điều chỉnh; qua kiểm tra đã phát hiện, xem xét xử lý các trường hợp vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật để giữ vững kỷ cương trong Đảng, góp phần ổn định tình hình chính trị địa phương.

Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, Tỉnh ủy Lào Cai đã rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT các cấp và cán bộ đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; khắc phục nhận thức lệch lạc về công tác kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật trong Đảng.

Hai là, trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp uỷ giao, UBKT các cấp phải luôn coi trọng việc quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, hướng dẫn của UBKT Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; chủ động, tích cực tham mưu đề xuất, nhất là đối với thường trực, thường vụ cấp uỷ; tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.

Ba là, thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của UBKT các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Bốn là, thực hiện tốt quy chế phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng giữa UBKT với các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các ngành có liên quan để nắm chắc thông tin, thống nhất trong nhận định, đánh giá, kết luận các vụ việc phức tạp.

Năm là, phát huy vai trò trách nhiệm của nhân dân và các tổ chức chính trị-xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật. Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với Nhân dân, góp phần giữ nghiêm kỷ cương kỷ luật trong Đảng.

Sáu là, đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng, coi công tác thi đua khen thưởng là động lực quan trọng để thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn./
Kim Ánh Thép - UBKT Tỉnh ủy
Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập