Đảng bộ tỉnh Lào Cai tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Trong những năm gần đây, công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng
vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp
trong Đảng bộ đã nhìn nhận đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra,
giám sát là để phòng ngừa, kịp thời xử lý kỷ luật, ngăn ngừa vi phạm của tổ
chức đảng và đảng viên; có tác dụng, ý nghĩa giáo dục và làm trong sạch tổ chức
đảng. Từ đó cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở luôn coi trọng, tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Tỉnh ủy quán triệt sâu sắc, tổ
chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Kết luận số 72-KL/TW ngày 17/5/2010 của
Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm
2020; các quy định, quy chế, quyết định, hướng dẫn của Trung ương Đảng,
của Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, gắn với
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa
XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”
“tự chuyển hóa” trong nội bộ”; việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo từ đầu các nhiệm kỳ
2010-2015; 2015-2020; 2020-2025 ban hành và tổ chức thực hiện Đề án 26 về
“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra của toàn
Đảng bộ và hệ thống chính trị, giai đoạn 2011- 2015”; Chỉ thị số 23-CT/TU ngày
08/11/2016 “về lãnh đạo nâng cao chất
lương, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra trong toàn Đảng bộ và hệ
thống chính trị tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2016 - 2020”; Đề án số 16-ĐA/TU ngày 11/12/2020 của Tỉnh ủy
về “nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành
kỷ luật Đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2021- 2025”.
Cấp ủy, UBKT các cấp đã ban hành và thực hiện
nghiêm hệ thống các quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn, biểu mẫu trong
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; thường xuyên rà soát các quy
chế, quy định, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát để sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới theo thẩm quyền để tổ chức thực hiện như: Đề án số 01 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quy trình thực hiện các
cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề, thi hành kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo,
khiếu nại của tổ chức đảng, cấp ủy, cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy trong
Đảng bộ tỉnh Lào Cai; Quyết định số 238-QĐ/UBKTTU ngày 27/6/2014 của UBKT Tỉnh
ủy ban hành quy trình tiến hành công tác và mẫu văn bản nghiệp vụ kiểm tra, giám
sát, thi hành kỷ luật đảng của UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai; Quy định 1476 -QĐ/TU ngày
21/4/2020 Quy
định về bộ quy trình thực hiện các cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề, thi hành
kỷ luật, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của tổ chức đảng, cấp ủy, cơ quan
tham mưu giúp việc cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai (sửa đổi, bổ sung Đề án
01); Quyết định số 351-QĐ/UBKTTU ngày 31/3/2020 của UBKT Tỉnh ủy ban hành quy
trình tiến hành công tác và mẫu văn bản nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, thi hành
kỷ luật đảng của UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh Lào Cai (Sửa đổi, bổ sung quy
trình được ban hành kèm theo quyết định 238).
Cấp ủy, Uỷ ban Kiểm tra các
cấp trong tỉnh chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình kiểm tra, giám
sát toàn khóa và hằng năm. Quá trình tổ chức thực hiện bám sát phương châm "Giám sát phải
mở rộng", "Kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm", tập trung
kiểm tra, giám sát các nhiệm vụ trọng tâm Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIV, XV và nghị quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2010-2015,
2015-2020 đề ra. Quan tâm thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát thường xuyên; phân công
các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ủy viên ban chấp hành, ủy viên ủy ban kiểm
tra phụ trách, theo dõi các lĩnh vực, địa bàn, thường xuyên bám sát cơ sở nắm
chắc tình hình hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trên các lĩnh vực kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hằng
tháng báo cáo kết quả giám sát với cấp ủy, thường trực cấp ủy, thường trực UBKT, qua đó giúp cấp ủy,
UBKT nắm chắc tình hình mọi mặt ở địa phương, cơ sở, phục vụ kịp thời công tác
lãnh đạo, chỉ đạo; giúp tổ chức đảng và đảng viên có ý thức hơn trong việc chấp
hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng
cao ý thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất
đạo đức, lối sống của đảng viên, cấp ủy viên, kịp thời phòng ngừa, chấn chỉnh,
uốn nắn sai phạm từ khi mới có dấu hiệu hình thành.
Từ năm 2010
đến nay, cấp
ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ tỉnh đã tổ
chức thực hiện kiểm tra đối với 5.124 lượt tổ chức đảng và 11.252 đảng viên (trong đó có 3.123 cấp ủy
viên các cấp); giám sát chuyên đề đối với 3.387 lượt tổ chức đảng và 7.662 đảng
viên (trong đó có 2.295 cấp ủy viên các cấp). Các cơ quan tham mưu giúp việc
cấp tỉnh, cấp huyện tổ chức kiểm tra 1.491 lượt tổ chức và 122 đảng viên, giám
sát 500 lượt tổ chức đảng và 258 đảng viên; thi hành kỷ luật 08 tổ chức đảng với hình thức kỷ luật khiển trách; thi
hành kỷ luật đối với 1.160 đảng viên (khiển trách 799 đảng viên, cảnh cáo 264
đảng viên, cách chức 56 đảng viên, khai trừ 41 đảng viên).
UBKT các cấp đã chủ động xây dựng
chương trình kiểm tra, sát; bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, tình hình chính
trị địa phương để tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của
Điều lệ Đảng, trong đó xác định nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra đảng viên, kể cả
cấp ủy viên cùng cấp và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm và nhiệm
vụ giám sát, cụ thể: UBKT các
cấp đã kiểm tra đối với 284 tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm,
qua kiểm tra kết luận 187 tổ chức đảng có vi phạm, đến mức phải xử lý và đã xử
lý kỷ luật 03 tổ chức đảng. Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 713 đảng
viên (trong đó có 410 đảng viên là cấp uỷ viên các cấp), qua kiểm tra kết luận
580 đảng viên có vi phạm, bằng 81,34% so với số đảng viên được kiểm tra; đến
mức phải xử lý kỷ luật và đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức 217 đảng viên
bằng 37,41% so với tổng số đảng viên vi phạm;
Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 3.094 tổ
chức đảng cấp dưới, kết quả có 2.910 tổ chức đảng (chiếm 94,1% so với tổng số tổ chức đảng được kiểm
tra) ban hành được chương trình, kế hoạch kiểm tra và thực hiện tốt nhiệm vụ
kiểm tra; Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng đối với 385 tổ chức đảng, kết quả có 368 tổ
chức (chiếm 95,5% so tổng số tổ chức đảng được kiểm tra) thực hiện đúng phương
hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục trong thi hành kỷ luật; còn 17 tổ chức
đảng (chiếm 4,5%) chưa làm tốt việc thi hành kỷ luật trong Đảng; Kiểm
tra tài chính Đảng đối với 292 tổ chức đảng, qua kiểm tra kết luận có 290
(chiếm 97,3%) tổ chức thực hiện tốt nội dung kiểm tra, còn 08 tổ chức (chiếm
2,7%) có sai phạm và phải thu hồi số tiền là 74.628.000 đồng; kiểm tra việc
thu, nộp, quản lý và sử dụng đảng phí
đối với 3.181 lượt tổ chức, thu
hồi số tiền vi phạm 105.223.000 đồng; UBKT các cấp giám sát chuyên đề đối với
3.070 tổ chức đảng và 4.047 đảng viên, qua kiểm tra kết luận 3.002 tổ chức đảng
(chiếm 97,7%) và 3.992 đảng viên (chiếm 98,6%) thực hiện tốt nội dung giám sát,
68 tổ chức có vi phạm và phải chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với
12 tổ chức đảng; 29 đảng viên có vi phạm và phải chuyển kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm đối với 18 đảng viên; thi hành kỷ luật đối với 340 đảng
viên (khiển trách 128 đảng viên, cảnh cáo 95 đảng viên, khai trừ 117 đảng
viên), giải quyết tố cáo đối với 04 tổ chức đảng và 171 đảng viên, đã giải
quyết đúng thời gian quy định đối với 04 tổ chức (tố đúng và đúng 1 phần 4 tổ
chức, phải xử lý kỷ luật 1 tổ chức) và 171 đảng viên, kết luận đúng có vi phạm
81 đảng viên, trong đó phải thi hành kỷ luật và đã thi hành kỷ luật 34 đảng
viên.
Qua kiểm
tra, giám sát đã giúp cấp ủy đánh giá đúng tình hình thực hiện nhiệm vụ của tổ
chức đảng, đảng viên thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm; phát hiện, biểu dương những
điển hình tốt; yêu cầu khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, đồng thời đề
xuất, kiến nghị các biện pháp để giải quyết kịp thời khó khăn vướng mắc đề ra
giải pháp để tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn các chủ trương nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Việc giải
quyết tố cáo bảo đảm đúng quy trình, kết luận rõ đúng sai, giúp cho cán bộ,
đảng viên và tổ chức đảng thấy rõ khuyết điểm, vi phạm phải sửa chữa, rút kinh
nghiệm và có biện pháp khắc phục. Qua đó bảo vệ được cán bộ, minh oan cho những
trường hợp bị tố cáo sai. Việc thi hành kỷ luật được các cấp ủy quan tâm thực
hiện nghiêm minh vừa để giữ nghiêm kỷ luật đảng vừa có tác dụng răn đe, giáo
dục đảng viên nâng cao kỷ luật và tính tiền phong gương mẫu, làm trong sạch đội
ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng. Việc xem xét thi hành kỷ luật cơ bản đảm bảo đúng thẩm quyền, vận dụng
đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật trong Đảng
(sau khi bị thi hành kỷ luật số đảng viên có đơn khiếu nại về kỷ luật đảng là
03 đảng viên chỉ chiếm 0,25% so với tổng số đảng viên bị thi hành kỷ luật), qua
đó tạo sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; giúp
cán bộ, đảng viên nhận thức rõ khuyết điểm, vi phạm; việc thi hành kỷ luật gắn
với việc khắc phục hậu quả, kiện toàn tổ chức, thu hồi kinh tế, tài sản bị
chiếm dụng, thất thoát nên có tác dụng tích cực trong giáo dục, ngăn ngừa sai
phạm. Công tác giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với đảng viên được
cấp uỷ và UBKT các cấp quan tâm xem xét giải quyết dứt điểm, công tâm, khách
quan, đúng thời gian quy định, đúng nguyên tắc, quy trình của Đảng.
Việc thực
hiện quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng giữa UBKT với các cơ quan ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu quả. Công tác
phối hợp được thực hiện thường xuyên, đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mỗi cơ quan; tham mưu giúp Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, cấp ủy các cấp
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng nói chung và
công tác kiểm tra, giám sát nói riêng; xem xét, kết luận, xử lý những sai phạm
liên quan đến đảng viên là cán bộ diện cấp uỷ quản lý theo quy định; xem xét,
xử lý vi phạm sau kết luận thanh tra, kiểm tra; kiến nghị, đề xuất với Tỉnh uỷ,
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cơ quan có thẩm quyền nhiều nội dung liên quan đến
kinh tế, cơ chế, chính sách và quản lý tài chính, tài sản của Nhà nước; phối
hợp, chỉ đạo các cơ quan chức năng thu hồi nộp ngân sách Nhà nước các khoản
tiền sử dụng sai quy định, khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản
lý góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, củng cố lòng tin của cán bộ, đảng
viên và Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần tích cực, có hiệu
quả vào việc phòng, chống tham nhũng, phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng,
an ninh và công tác xây dựng Đảng ở địa phương.
Cấp ủy
đảng từ tỉnh đến cơ sở đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, củng cố kiện
toàn đội ngũ cán bộ UBKT và cơ quan UBKT, xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên môn
và lý luận chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra cho cán bộ làm công tác kiểm
tra. Kịp thời bổ sung, kiện toàn UBKT Tỉnh ủy, UBKT các huyện uỷ, thành uỷ,
đảng uỷ trực thuộc và UBKT đảng uỷ cơ sở.
Từ kết quả trên cho thấy công tác kiểm tra, giám sát
trong Đảng bộ tỉnh đã được các cấp ủy đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện có nền nếp. Cấp uỷ các cấp chủ động xây dựng chương trình kiểm
tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm; kịp thời triển khai, quán triệt các văn bản
của Đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; ban hành
nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức đảng thực hiện tốt
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; thường xuyên cho ý kiến đối với hoạt động của UBKT
theo quy định của Điều lệ Đảng và quy chế làm việc; nghiêm túc tổ chức và chỉ
đạo việc tổng kết, sơ kết công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo đúng
quy định; quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT, cơ quan UBKT; chú
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra. Các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp ủy
đạt chất lượng và hiệu quả, so với nhiệm kỳ trước có nhiều ưu điểm nổi bật; đặc
biệt đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát. Nội dung kiểm tra, giám sát có
trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra trong việc thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị của cấp trên và cấp mình về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng và công tác xây dựng Đảng. Qua kiểm tra, giám sát đã chỉ rõ ưu điểm,
thiếu sót, khuyết điểm, xử lý kịp thời các vi phạm, có tác dụng tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc, ngăn ngừa vi phạm, qua đó góp phần ổn định tình hình chính
trị của địa phương.
UBKT các cấp đã chủ động thực
hiện khá toàn diện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và nhiệm vụ cấp uỷ
giao. Việc chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của UBKT Tỉnh ủy có nhiều nét
đổi mới, chỉ đạo quyết liệt hơn, tăng cường giám sát thường xuyên, nắm chắc
tình hình cơ sở, tập trung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm có trọng tâm, trọng
điểm, nhất là đối với lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp. Các nhiệm vụ khác như kiểm
tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, kiểm
tra tài chính đảng được duy trì nền nếp; tăng cường giám sát thường xuyên, chủ
động tham mưu, đề xuất với cấp uỷ, tranh thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn của UBKT cấp
trên, tích cực tham gia giải quyết những điểm nóng, vụ việc nổi cộm; giải quyết
kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo; kiên quyết xử lý, tham mưu cấp ủy xử lý
những vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật, việc thi hành kỷ luật bảo đảm đúng
phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, có tác dụng giáo dục, do vậy
tình trạng khiếu nại kỷ luật đảng phải giải quyết giảm nhiều. Chất lượng, hiệu
quả của các cuộc kiểm tra, giám sát được nâng lên; quy trình, hồ sơ thực hiện
đúng quy định. Ngoài ra, UBKT các cấp tích cực, chủ động tham mưu giúp cấp uỷ
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều 30, Điều lệ Đảng, là nòng cốt
tham gia các cuộc kiểm tra, giám sát của cấp ủy và thực hiện tốt nhiệm vụ cấp
ủy giao.
Công tác kiểm tra, giám sát giúp các tổ chức đảng,
đảng viên nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện nhiệm vụ; uốn nắn những lệch lạc để các đơn vị được kiểm tra điều chỉnh;
qua kiểm tra đã phát hiện, xem xét xử lý các trường hợp vi phạm đến mức phải
thi hành kỷ luật để giữ vững kỷ cương trong Đảng, góp phần ổn định tình hình
chính trị địa phương.
Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, Tỉnh ủy Lào Cai đã rút ra
một số kinh nghiệm sau:
Một là, không
ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT các cấp và
cán bộ đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật Đảng; khắc phục nhận thức lệch lạc về công tác kiểm tra,
giám sát và việc thi hành kỷ luật trong Đảng.
Hai là, trong quá trình tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm
vụ cấp uỷ giao, UBKT các cấp phải luôn coi trọng việc quán triệt các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, hướng dẫn của UBKT Trung ương về công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; chủ động, tích cực tham mưu đề xuất, nhất là
đối với thường trực, thường vụ cấp uỷ; tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp uỷ, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.
Ba là, thường
xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của UBKT các cấp có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong giai
đoạn hiện nay.
Bốn là,
thực hiện tốt quy chế phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng giữa UBKT với các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy, các cơ quan
bảo vệ pháp luật, các ngành có liên quan để nắm chắc thông tin, thống nhất
trong nhận định, đánh giá, kết luận các vụ việc phức tạp.
Năm là, phát huy vai trò trách nhiệm
của nhân dân và các tổ chức chính trị-xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật. Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên, giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với Nhân dân, góp phần giữ
nghiêm kỷ cương kỷ luật trong Đảng.
Sáu là, đẩy
mạnh công tác thi đua, khen thưởng, coi công tác thi đua khen thưởng là động lực
quan trọng để thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ chuyên môn./