Thẩm tra, xác minh trong kiểm tra, giám sát lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Lượt xem: 65

                                                              (Nguyễn Duy Thắng, UBKT Tỉnh ủy; Biên  soạn theo Tài liệu của UBKT Trung ương)

 

I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1- Tư tưởng chính trị

1.1- Khái niệm tư tưởng

Theo Từ điển Tiếng Việt, Tư tưởng là “sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ”, là “quan
điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội” (nói tổng quát[1];). Tư tưởng tiến bộ; tư tưởng phong kiến; đấu tranh tư tưởng. Theo từ điển Triết học, Tư tưởng là “Một hình thái phản ánh thế giới xung
quanh con người, tổng hợp các quan niệm, khái niệm thành một thể duy nhất[2]. Tư tưởng có thể tác động tích cực đến quá trình phát triển xã hội.

Tư tưởng bao gồm tri thức, ý tưởng, quan điểm, suy nghĩ về cách ứng xử đối với sự vật, sự việc, hiện tượng mà con người nhận thức được. Mọi tư tưởng đều có tác dụng đối với thực tiễn khách quan. Có tư tưởng tiến bộ, cách mạng ảnh hưởng tích cực, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Có tư tưởng lạc hậu, phản động làm cho thực tiễn xã hội biến đổi xấu đi. Trong mỗi xã hội nói chung đều tồn tại cả hai khuynh hướng tư tưởng trên, đều tác động đến ý thức của con người.

1.2- Khái niệm chính trị

Chính trị theo nghĩa thứ nhất là: “Là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc những hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành nhà nước[3] như: chế độ chính trị, tình hình chính trị, hoạt động chính trị. Theo nghĩa thứ hai, chính trị là: “Những biểu hiện về mục đích, đường lối và nhiệm vụ đấu tranh của các chính đảng cũng như đông đảo quần chúng[4] như: công tác chính trị, giáo dục ý thức chính trị; vững vàng về chính trị. Trong một số tổ hợp: “Chính trị thường dùng sau danh từ: Những hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng; tổ chức quần chúng thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị nhất định (nói khái quát), như: công tác tư tưởng chính trị, cán bộ chính trị. Hoặc (dưới góc độ là tính từ): Chỉ sự khéo léo đối xử để đạt mục đích mong muốn, như: một thái độ rất chính trị...”.

Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, chính trị là “Toàn bộ những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi là vấn đề giành, giữ, tổ chức điều hành bộ máy chính quyền và tham gia các công việc của nhà nước; sự biểu hiện tập trung của kinh tế[5].

1.3- Khái niệm tư tưởng chính trị

Từ nghiên cứu, luận giải về khái niệm tư tưởng, khái niệm chính trị nêu trên, có thể hiểu tư tưởng chính trị là: “Hình thức phản ảnh các hiện tượng của thực tiễn khách quan của xã hội, con người, giới tự nhiên vào trong tư duy của con người, để con người có thể nhận thức được thế giới khách quan và nêu ý tưởng cải tạo nó trong thực tế. Là những biểu hiện về tôn chỉ, mục đích, đường lối và nhiệm vụ đấu tranh của các chính đảng cũng như đông đảo quần chúng trong hoạt động thực tế”.

1.4- Tư tưởng chính trị của đảng viên

Có thể hiểu tư tưởng chính trị của người đảng viên cộng sản là: “Hình thức
phản ảnh các hiện tượng của thực tiễn khách quan của xã hội, con người, giới tự
nhiên vào trong tư duy của mỗi đảng viên, để từng đảng viên đó có thể nhận thức
được thế giới khách quan và đề ra ý tưởng, phương thức, biện pháp cải tạo nó trong thực tế để trở thành hiện thực”.

 Tư tưởng chính trị của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là những tôn chỉ, mục đích, đường lối và nhiệm vụ đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hoạt động thực tế phù hợp với tình hình, điều kiện, đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi mỗi đảng viên phải nắm vững, tự giác tuân thủ và thực hiện đúng quy định theo chức trách nhiệm vụ được giao. Tư tưởng chính trị của tổ chức đảng và đảng viên được hình thành, được bồi đắp tùy thuộc chủ yếu ở hiệu quả công tác chính trị tư tưởng của tổ chức đảng và  đảng viên. Tư tưởng chính trị phản ánh trạng thái nhận thức tư tưởng của tổ chức đảng và đảng viên đối với đường lối chính trị của Đảng. Tư tưởng chính trị được đề cập trong Nghị quyết Trung ương về xây dựng Đảng phản ánh toàn bộ trạng thái tư tưởng của tổ chức đảng và đảng viên đối với toàn bộ hệ thống các quan điểm chỉ đạo, đường lối chính trị, đường lối cầm quyền của Đảng ta đã được xác lập trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị, quy định, kết luận do Đảng ban hành hoặc được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành. Trạng thái tư tưởng về chính trị tồn tại ở các cấp độ khác nhau: kiên định, không kiên định, dao động, suy thoái.

2- Đạo đức, lối sống

2.1- Khái niệm đạo đức: Đạo đức theo nghĩa thứ nhất là “phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội[6]. Theo nghĩa thứ hai, đạo đức là:” phẩm chất tốt đẹp của con người”, như: sống có đạo đức; rèn luyện đạo đức. Theo Từ điển Tiếng Việt, đạo đức là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội (nói tổng quát); là những phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có[7].

Đạo đức của người đảng viên cộng sản là những phép tắc, quy định của Đảng về quan hệ giữa những người đảng viên với nhau, giữa người đảng viên với tổ chức đảng mà mình là thành viên, với quần chúng nhân dân, với chính đảng mà mình tham gia, buộc mình phải tuân theo vô điều kiện theo đúng tôn chỉ, mục đích và phải tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu suốt đời để giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp của người đảng viên cộng sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Người khẳng
định: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng một cách vẻ vang”. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố”. Người chỉ ra nguồn gốc của đạo đức cách mạng là quá trình thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất xã hội: “Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư - đó là đạo đức cách mạng[8].

Người xác định bản chất của đạo đức cách mạng là quá trình giải quyết mâu
thuẫn giữa cá nhân và xã hội: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng[9]. Người còn chỉ ra những phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản của người đảng viên cộng sản: “Muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều sau đây: Trí – Tín - Nhân - Dũng - Liêm”; “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân[10]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đạo đức cách mạng có tác dụng to lớn đối với việc bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Có đạo đức cách mạng mới lãnh đạo được giai cấp, tổ chức, đoàn kết được quần chúng, làm cho cách mạng thắng lợi, kháng chiến thành công”.

2.2- Khái niệm lối sống

“Lối sống” của cán bộ, đảng viên cộng sản được hiểu là: “Cách thức diễn ra hoạt động đã trở thành ổn định, mang đặc điểm riêng của mỗi người đảng viên cộng sản trong sinh hoạt, hoạt động, công tác và trong quan hệ ứng xử với nhân dân theo các quy định của Đảng, phù hợp với các quy định của pháp luật và đạo đức văn hóa, thuần phong, mỹ tục của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa của nhân loại”. Lối sống của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải thể hiện được bản chất của Đảng ta là đảng chân chính, cách mạng, là đạo đức, là văn minh, thể hiện tính tiền phong, gương mẫu, tự giác, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của người đảng viên.

3- “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

- “Tự diễn biến” của tổ chức đảng, tổ chức nhà nước hoặc cán bộ, đảng viên là tự chính bản thân cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cá nhân cán bộ, đảng viên có hành vi, việc làm hoặc tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng của chính cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, dẫn đến sự tự biến đổi từ lượng đến chất về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống hoặc về ý thức, trách nhiệm trong từng thời điểm, thời kỳ nhất định.

- “Tự chuyển hóa” của tổ chức đảng tổ chức nhà nước hoặc cán bộ,
đảng viên là tự tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, cá nhân cán bộ, đảng viên có hành vi hoặc việc làm hoặc tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng riêng của cấp ủy, tổ chức đảng, cá nhân đảng viên để tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống hoặc về ý thức, trách nhiệm biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác.

II- CÁC BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA CỦA ĐẢNG VIÊN

1- Các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

(1)- Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

(2)- Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
(3)- Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý
luận chính trị; lười học tâp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
(4)- Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí
phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
(5)- Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có
khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

(6)- Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng,
làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không
nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.

(7)- Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.

(8)- Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.

(9)- Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.

2- Các biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống

(1)- Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tỵ nạnh, không muốn người khác hơn mình.

(2)- Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
(3)- Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

(4)- Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".

(5)- Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

(6)- Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài
sản, ngân sách Nhà nước, đất đai, tài nguyên....; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công420 quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

(7)- Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh
nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thao túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
(8)- Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy
luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

(9)- Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tôc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.

3- Các biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

(1)- Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".

(2)- Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

(3)- Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ định những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Có hành vi viết, phát ngôn, tán phát tài liệu xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

(4)- Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

(5)- Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.

(6)- Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ
hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức,
tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.

(7)- Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.

(8)- Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

(9)- Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân
chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

III. PHƯƠNG PHÁP NẮM TÌNH HÌNH

1- Phương pháp nắm tình hình

Cán bộ theo dõi lĩnh vực địa bàn thực hiện việc nắm tình hình về đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua các kênh thông tin sau:

1.1- Dự các cuộc họp, hội nghị của tổ chức đảng được phân công theo dõi để
nắm tình hình hoạt động của đảng viên, cấp ủy viên.

1.2- Dự hội nghị kiểm điểm hằng năm của tổ chức đảng, đảng viên, trong đó có kiểm điểm cam kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Khóa XII về  xây dựng Đảng, việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị và các quy định về trách nhiệm nêu gương.

1.3- Dự hội nghị sơ kết, tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, các quy định về trách nhiệm nêu gương và các nghị quyết, chỉ thị khác có liên quan đến công tác xây dựng Đảng và đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

1.4- Nghiên cứu báo cáo của tổ chức đảng, đảng viên cấp dưới báo cáo cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp mình.

1.5- Nghiên cứu các báo cáo, kết luật thanh tra, kiểm tra, giám sát, điều tra của các tổ chức Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân (qua điện thoại, tin nhắn) gửi ủy ban kiểm tra.

1.6- Báo cáo, tài liệu của Ban chỉ đạo 35 các cấp gửi cấp ủy, ủy ban kiểm tra
về tình hình hoạt động của cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa.

1.7- Qua tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát, đoàn công tác của cấp ủy, các tổ chức chính trị - xã hội... cùng cấp kiểm tra, giám sát, làm việc với tổ chức, cá nhân cấp dưới. Qua tham gia các buổi tiếp công dân, đối thoại với nhân dân của các đồng chí lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc theo quy định; Qua giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội với các tổ chức đảng và đảng viên.

1.8- Qua đơn thư phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại của tổ chức đảng, cán bộ đảng viên và nhân dân; đơn thư tố cáo của đảng viên và công dân.

1.9- Qua chỉ đạo, đôn đốc, theo dõi hằng ngày của đảng viên là bí thư, phó bí thư, chi ủy viên đối với hoạt động, sinh hoạt của đảng viên trong chi bộ, đảng bộ mình.

1.10- Qua các tài liệu, bài viết, bài nói, phát ngôn trong hội nghị, hội thảo, diễn đàn, câu lạc bộ của các cá nhân, một số, một nhóm người lợi dụng tham gia ý kiến xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị để nói xấu, xuyên tạc chế độ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội; phủ nhận, đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc tổ chắc và hoạt động của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xã hội dân sự; nói xấu, bộ nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các lãnh tụ...

1.11- Qua các sách, tài liệu, ấn phẩm của các tổ chức, cá nhân tự phát hành
hoặc được phép phát hành có biểu hiện phản ảnh xuyên tạc sự thật, nói xấu chế độ, bôi nhọ uy tín, danh dự của đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

1.12- Qua những bài tham luận, tham gia ý kiến, phát ngôn của cán bộ đảng
viên có biểu hiện suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong các hội nghị, hội thảo, các diễn đàn của các hội, hiệp hội, hội nhóm, các tổ chức trong và ngoài nước tổ chức.

1.13- Qua phản ảnh của các phương tiện thông tin đại chúng: các báo, tạp chí, trên Internet, Google, Facebook, mạng xã hội khác.

1.14- Qua các bài viết, phát ngôn, tài liệu, tư liệu các cán bộ, đảng viên tự tán phát, đưa lên mạng xã hội; ý kiến chia sẻ về các bài viết, bài nói, phát ngôn của cán bộ đảng viên trên báo chí và trên mạng xã hội.

2- Báo cáo kết quả nắm tình hình

Qua nắm tình hình về hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên thấy có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên thì cán bộ kiểm tra báo cáo lãnh đạo đơn vị hoặc đồng chí thành viên ủy ban phụ trách để báo cáo thường trực ủy ban kiểm tra xem
xét, quyết định kiểm tra, giám sát hoặc giải quyết tố cáo đối với đảng viên có liên quan biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

IV- PHƯƠNG PHÁP, QUY TRÌNH THẨM TRA, XÁC MINH

1- Nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh biểu hiện vi phạm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của đảng viên

1.1- Nội dung thẩm tra, xác minh

Tuỳ từng cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giám sát, giải quyết tố cáo cụ thể đối với đảng viên có yêu cầu về nội dung kiểm tra, giám sát và nội dung thẩm tra, xác minh khác nhau. Căn cứ vào mục đích, yêu cầu của từng cuộc kiểm tra dấu hiệu vi phạm, giám sát, giải quyết tố cáo đối với đảng viên để xác định nội dung kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo và nội dung thẩm tra, xác minh cụ thể cho phù hợp. Nội dung thẩm tra, xác minh biểu hiện vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên là những nội dung kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo có vấn đề cần phải được xem xét, làm rõ có vi phạm hay không vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước (bao gồm các hành vi, việc làm, bài viết, nói, thông tin phản ánh, nội dung đăng tải, tán phát, phản ánh, ấn phẩm, tài liệu, văn bản, băng ghi âm, ghi hình, các phương tiện mang tin khác được đảng viên sử dụng và thực hiện). Vì vậy, phải căn cứ mục đích, yêu cầu và nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo của từng cuộc kiểm tra dấu hiệu vi phạm, giám sát, giải quyết tố cáo về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên để  xác định nội dung cần thẩm tra, xác minh đầy đủ, cụ thể, sát hợp.

1.2- Đối tượng thẩm tra, xác minh

- Chủ thể kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo, tiến hành thẩm tra, xác minh là cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo.  

- Khi tiến hành thẩm tra, xác minh, phải xác định rõ đối tượng thẩm tra, xác
minh. Đối tượng thẩm tra, xác minh là việc và “người”.

+ Việc cần thẩm tra, xác minh là những thông tin, sự việc, tư liệu, hiện vật có liên quan đến nội dung, đối tượng được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo nêu trong kế hoạch, lịch kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo.

+ “Người”: đối tượng cần thẩm tra, xác minh là những tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung và đối tượng được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo. Tổ chức bao gồm tổ chức đảng, tổ chức Nhà nước, tổ chức kinh tế, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp... Khi tiến hành thẩm tra,
xác minh các tổ chức Nhà nước, tổ chức kinh tế, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội, phải thông qua tổ chức đảng có thẩm quyền ở nơi đó. Nơi không
có tổ chức đảng chỉ làm việc với tập thể lãnh đạo và các đơn vị, cá nhân có liên quan trong tổ chức, đơn vị đó và phải ghi biên bản làm việc đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, đúng quy định. Cá nhân bao gồm cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và những người biết việc có liên quan đến nội dung, đối tượng được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo. Đối tượng thẩm tra, xác minh biểu hiện vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên là những thông tin, sự việc, tư liệu hiện vật, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung, đối tượng được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo trong lĩnh vực này cần được xem xét, làm rõ.

2- Căn cứ để thẩm tra, xác minh biểu hiện vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng
viên

2.1. Căn cứ để thẩm tra, xác minh

- Căn cứ kế hoạch của từng cuộc kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo do tổ chức đảng tiến hành kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo đã xác định về mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo.

- Căn cứ vào mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng được kiểm tra, giám sát,
giải quyết tố cáo có vấn đề cần phải thẩm tra, xác minh để xem xét, làm rõ trong kế hoạch thẩm tra, xác minh do tổ chức đảng tiến hành kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo xác định.

- Căn cứ tình hình thực tế của quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh để bổ sung đối tượng, nội dung thẩm tra, xác minh còn thiếu hoặc phát sinh (khi thấy cần thiết).

2.2. Cơ sở để thẩm tra, xác minh

- Khi đảng viên có biểu hiện vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đòi hỏi phải được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo để xem xét, làm rõ đúng, sai, đánh giá, nhận xét, kết luận rõ ràng có vi phạm hay không vi phạm; nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm thông qua các nguồn, các kênh thông tin khác nhau đã được kiểm chứng và được ủy ban hoặc thường trực ủy ban kiểm tra xác định và quyết định kiểm tra, đoàn kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo lựa chọn, xác định cần phải thẩm tra, xác minh.

- Quá trình thẩm tra, xác minh phát hiện thêm nội dung, đối tượng cần thẩm
tra, xác minh thì tiến hành báo cáo thường trực ủy ban để quyết định bổ sung và tiến hành thẩm tra, xác minh bổ sung các nội dung, đối tượng đó.

- Khi thẩm tra, xác minh phải căn cứ vào các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội để làm cơ sở so sánh, đối chiếu, nhận định, đánh giá nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm, bao gồm:

+ Cương lĩnh chính trị.

+ Điều lệ Đảng và các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định, quyết định, kết luận, hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Hướng dẫn của các cơ quan tham mưu giúp việc ở Trung ương, như: Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận Trung ương...

+ Các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, các quy chế, quy định ... của cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy các cấp và hướng dẫn của các ban đảng của cấp ủy các cấp về công tác tổ chức, cán bộ, tư tưởng - văn hoá, phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiêu cực...

+ Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế của các bộ, ngành, ban chỉ đạo Trung ương và các văn bản chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền về công tác tư tưởng - văn hoá, công tác cán bộ, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực...

+ Các kết luận về giám định chuyên môn kỹ thuật của các cơ quan có chức
năng.

+ Các kết luận, quyết định của cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

3- Phương pháp và quy trình thẩm tra, xác minh

- Yêu cầu cần đạt được qua việc thẩm tra, xác minh trong lĩnh vực tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của
đảng viên thông qua tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giám sát, giải quyết tố cáo là phải làm rõ, xem xét, đánh giá, kết luận chính xác ưu điểm, thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm (nếu có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo để xem xét, kết luận, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ đảng có thẩm quyền xem xét, kết luận và xử lý đúng đắn.

- Phương pháp thẩm tra, xác minh trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên đòi hỏi phải tuân thủ đúng các nguyên tắc, phương pháp công tác đảng nói chung: Phải dựa vào tổ chức đảng; phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; tinh thần xây dựng đảng của quần chúng; kết hợp giữa công tác kiểm tra của Đảng và các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, giám sát của Nhà nước và của các tổ chức chính trị, xã hội khác; chú trọng làm thật tốt công tác thẩm tra, xác minh.

Phương pháp thẩm tra, xác minh dấu hiệu vi phạm trong lĩnh vực công tác tư tưởng - văn hoá cũng như phương pháp thẩm tra, xác minh dấu hiệu vi phạm trong các lĩnh vực khác đều phải tuân thủ và thực hiện theo đúng các phương pháp thẩm tra, xác minh của Đảng. Tuỳ trường hợp cụ thể, sự việc cụ thể cần thẩm tra, xác minh để vận dụng linh hoạt các phương pháp thẩm tra, xác minh một cách thích hợp, linh hoạt để đạt kết quả cao nhất, kể cả thực hiện việc thẩm tra, xác minh liên hoàn. Trong đó phải chú ý các vấn đề sau:

- Nội dung dấu hiệu vi phạm trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên rất rộng, phức tạp, nhạy cảm và rất khó, trừu tượng, đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có kiến thức sâu rộng, có bản lĩnh, tính chiến đấu cao. Vì vậy, phải coi trọng việc kết hợp, phối hợp với các tổ chức đảng có liên quan trong công tác thẩm tra, xác minh để làm rõ vấn đề cần thẩm tra, xác minh được chuẩn xác (Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận, Đảng ủy Công an, Quân ủy (đảng ủy quân sự)…).

- Phải coi trọng việc phát huy vai trò xây dựng Đảng của nhân dân trong công tác thẩm tra, xác minh dấu hiệu vi phạm trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên để thu thập bằng chứng (nhân chứng, vật chứng, chứng cứ) được cụ thể, đầy đủ, chuẩn xác phục vụ việc xem xét, kết luận nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh được chính xác. Đặc biệt, khi thẩm tra, xác minh dấu hiệu vi phạm trong việc phát ngôn, phát tán tài liệu, phải hết sức coi trọng phát huy vai trò của nhân dân thì mới đem lại kết quả cao. Hành vi vi phạm về kỷ luật phát ngôn, phát tán tài liệu là hành vi phổ biến,tuyên truyền quan điểm, tài liệu của mình và quan điểm, tài liệu của Đảng, Nhà nước do tổ chức hoặc cá nhân được giao quản lý, không tuân thủ đúng quy định của Đảng và Nhà nước. Phải xác định tư cách pháp lý của đối tượng, xác định thời gian, địa điểm đối tượng phát ngôn, phát tán tài liệu; hình thức, phương tiện sử dụng để phát ngôn, phát tán tài liệu; đối tượng được nghe phát ngôn, nhận được tài liệu phát tán; phạm vi phát ngôn, phát tán tài liệu; số lần phát ngôn, số lượng tài liệu bị phát tán, cách thức phát tán, phát ngôn, nội dung phát ngôn, phát tán; động cơ, mục đích của việc phát ngôn, phát tán tài liệu. Để làm được điều đó, khi thẩm tra, xác minh cần phải dựa vào nhân dân, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thu thập bằng chứng bằng những biện pháp, hình thức thích hợp, trong đó hết sức coi trọng nhân chứng.

- Chú trọng phối hợp tốt với các cơ quan chỉ đạo, quản lý tư tưởng - văn hóa nơi đối tượng cần thẩm tra, xác minh có hoạt động, quan hệ ở đó và tổ chức đảng, đảng viên có quan hệ hoạt động.

- Phối hợp với các đơn vị công an quản lý tư tưởng - văn hoá các cấp và nơi đối tượng thẩm tra, xác minh có quan hệ hoạt động để trao đổi, thu thập thông tin, tài liệu, nhân chứng.

- Yêu cầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nơi đối tượng cần thẩm tra, xác minh có hoạt động quan hệ báo cáo và cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan.

- Khi cần thì phải mời các đối tượng có liên quan đến đối tượng cần thẩm tra, xác minh đến làm việc, trao đổi, đối chất để làm rõ vấn đề thẩm tra, xác minh.

- Trường hợp cần thiết mời đối tượng có liên quan đến đối tượng cần thẩm tra,xác minh hoặc các đối tượng thẩm tra, xác minh đến để đối thoại, đối chất làm rõ nội dung, bản chất sự việc, vấn đề cần thẩm tra, xác minh.

- Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, chương trình tổ chức các cuộc họp, hội nghị, các diễn đàn, câu lạc bộ để xem có đúng hay không đúng theo quy định hay được cấp có thẩm quyền cho phép.

- Nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu, văn bản, sổ họp tổ chức đảng, chi bộ, cơ quan nơi đối tượng thẩm tra, xác minh sinh hoạt, hoạt động, làm việc...

- Việc xác định, kết luận các vi phạm về tư tưởng chính trị thuộc phạm vi của ban bảo vệ chính trị nội bộ, Ban Tuyên giáo; những vấn đề về văn hoá, đạo đức, lối sống thì do uỷ ban kiểm tra chủ trì thẩm tra, xác minh, kết luận.

V- CÁC VI PHẠM THƯỜNG GẶP VÀ NHỮNG LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH THẨM TRA, XÁC MINH

1- Các vi phạm thường gặp

1.1- Các vi phạm về tư tưởng chính trị

- Dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Một số cán bộ lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Một số cán bộ, đảng viên không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng; thiếu trách nhiệm, làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

- Khi tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; thiếu thành
khẩn, không tự giác tự phê bình, nhận trách nhiệm và hình thức kỷ luật. Khi phê
bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không
đấu tranh hoặc lợi dụng phê bình để vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người
khác với động cơ cá nhân.

- Một số cán bộ, đảng viên nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Tham vọng chức quyền; kén chọn vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích. Tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân.

- Có việc làm biểu hiện "tư duy nhiệm kỳ", “bệnh thành tích”, chỉ tập trung
giải quyết những vấn đề có lợi trước mắt và cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người
thân, người quen, người nhà không đủ tiêu chuẩn, điều kiện hoặc bố trí sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích. Cố ý ban hành quy định trái với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Không chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; buông lỏng công tác lãnh đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Cục bộ, bè phái, mất đoàn kết. Bao che cho những hành động sai trái của cấp dưới.
- Một số cán bộ, đảng viên suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị; Phủ định
vai trò lãnh đạo của Đảng; phủ nhận thành quả và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam...

1.2- Các vi phạm về đạo đức, lối sống

- Có lối sống cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu
vén cá nhân. Không chấp hành nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương.
- Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; dân chủ hình
thức; có việc làm độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ.

- Mắc bệnh "thành tích", háo danh, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành
tích; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu". Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

- Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên....; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặckhông hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định.

- Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp để trục lợi; bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

- Một số cán bộ thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội...; để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

- Đánh bạc, cá độ, rượu chè bê tha; sa vào các tệ nạn xã hội. Có hành vi tham nhũng, cửa quyền và sách nhiễu nhân dân.

- Có hành vi trả thù, trù dập người thẳng thắn đấu tranh phê bình, người tố cáo đúng.

1.3- Các vi phạm về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

- Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện
"đa nguyên, đa đảng".

- Phản bác, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự".

- Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Có bài viết, nói, tài liệu góp ý phủ định những thành quả
cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

- Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

- Nói, viết, tán phát tài liệu, phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an.

- Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo
lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

- Có hành vi, việc làm lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo...

2- Những lưu ý trong quá trình thẩm tra, xác minh

Thẩm tra, xác minh trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa của đảng viên rất phức tạp, nhạy cảm, khó khăn, đòi hỏi cán bộ kiểm tra khi tiến hành công tác này phải lưu ý một số nội dung sau:

- Xác định nội dung cần thẩm tra, xác minh cụ thể, đầy đủ, chính xác: Phải
nghiên cứu kỹ nội dung kiểm tra để lựa chọn nội dung, đối tượng cần thẩm tra, xác minh cụ thể, đầy đủ, chính xác, trên cơ sở đó phải chuẩn bị đầy đủ các tài liệu liên quan là các quy định của Đảng, Nhà nước... để khi thu thập được tài liệu, chứng cứ (nhân chứng, vật chứng, thông tin...) kịp thời đối chiếu, so sánh, nhận diện để xác định có hay không có vi phạm, vi phạm vào những quy định nào của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong từng thời gian, thời điểm cụ thể, từ đó làm cơ sở cho việc xác định cụ thể nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến vi phạm của đảng viên mang tính nhất thời, lần đầu, do vô ý hay có tính hệ thống, cố ý vi phạm, vi phạm của cá nhân hay vi phạm nhiều người, heo nhóm, hội, có tổ chức; nếu vi phạm có tổ chức thì phải làm rõ vai trò của từng đảng viên trong tổ chức, hội, nhóm và các cá nhân có liên quan khác... Từ đó giúp cho việc chuẩn bị dự thảo báo cáo thẩm tra, xác minh được thuận lợi, đầy đủ, cụ thể, chính xác, có chất lượng, không sót lọt, không hời hợt, không phản ảnh đúng bản chất của vấn đề, sự việc cần thẩm tra, xác minh.

- Đối tượng thẩm tra, xác minh là đảng viên thường có chức vụ cao hoặc đã
từng giữ chức vụ cao trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị. Mặt
khác, lại có kiến thức sâu rộng, uyên bác trên nhiều lĩnh vực, có uy tín cả trong và ngoài nước, có quan hệ rộng ở nhiều cấp, nhiều ngành, và với các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, có nhiều thành tích cống hiến cho Đảng Nhà nước, được khen thưởng nhiều danh hiệu cao quý, kể cả được phong anh hùng... Trước khi gặp, làm việc, trao đổi, phải nghiên cứu kỹ nội dung cần trao đổi để chuẩn bị kỹ các phương án đấu tranh, đối chất, đối thoại, ứng phó, ứng xử phù hợp với đối tượng kiểm tra, giám sát, bị tố cáo; phải phân công cụ thể nhiệm vụ của từng thành viên trong đoàn để chuẩn bị nội dung, cách làm cụ thể. Khi làm việc phải tuân thủ sự chỉ đạo của đồng chí chỉ đạo đoàn hoặc trưởng đoàn kiểm tra. Chú ý nghiên cứu kỹ về tiểu sử, thái độ, tâm lý, sức khỏe của đối tượng làm việc để chuẩn bị tâm thế và các điều kiện cần thiết, phù hợp cho buổi làm việc hoặc đến làm việc tại nơi đối tượng công tác.

Khi tiếp xúc, làm việc, trao đổi phải có thái độ trân trọng, đúng mực đối với
đối tượng làm việc (đối tượng kiểm tra, người có liên quan đến đối tượng, nội dung thẩm tra, xác minh...). Phải thực hiện theo đúng các phương án đã đề ra, để cả khi có tình huống phát sinh thì các thành viên trong đoàn phải thực hiện theo đúng chỉ đạo của đồng chí chỉ đạo đoàn hoặc trưởng đoàn.

- Khi cần phải đối thoại, đối chất: Quá trình thẩm tra, xác minh đối với đối
tượng kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện ”tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nhiều diễn biến, tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, nếu thấy cần đối thoại, đối chất từ hai đối tượng trở lên, đoàn phải phân công các thành viên trong đoàn nghiên cứu kỹ từng đối tượng về: chức vụ về đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội; trình độ chuyên môn; nội dung dấu hiệu vi phạm có liên quan; tính chất, mức độ vi phạm; mối liên hệ với các đối tượng khác đối với dấu hiệu vi phạm cần thẩm tra, xác minh; vị trí, vai trò của đối tượng đó (chủ mưu, cầm đầu hay tham gia...); đặc điểm tâm lý; mối quan hệ xã hội; khả năng ảnh hưởng trong nhóm hoặc trong xã hội. Từ đó có các phương án đối thoại, đối chất cụ thể với từng đối tượng hoặc với hai, với ba đối tượng trở lên để làm rõ sự việc chưa thống nhất hoặc còn có mâu thuẫn.

- Khi cần phải trưng cầu giám định, thẩm định, nhất là trong việc giám định
nội dung các cuốn sách dịch có liên quan đến tư tưởng của các học thuyết phương
Tây, bên ngoài, sách viết có quan điểm trái đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, xuyên tạc lịch sử, sự thật, nói xấu chế độ, nói xấu, bôi nhọ các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôn vinh bản thân không đúng cần phải thẩm
định hoặc giám định thì đề nghị cơ quan có chức năng tiến hành lập hội đồng thẩm
định hoặc giám định theo đúng quy định. Căn cứ kết quả thẩm định, giám định để
có cơ sở nhận định, đánh giá, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận chuẩn
xác.

- Phải hết sức giữ bí mật trong quá trình thẩm tra, xác minh để đối tượng kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo không biết được hoạt động của đoàn để không đối phó hoặc thông đồng, thông báo cho nhau, hợp thức hóa tài liệu hoặc tẩu tán, tiêu hủy chứng cứ, tài liệu gây khó khăn, trở ngại cho quá trình thẩm tra, xác minh./.

 



[1] Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, GS Hoàng Phê (Chủ biên), Nxb Hồng Đức, 2019, tr 1358-1359.

[2] Từ điển Triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Cung Kim Tiến, Hà Nội, 2002, tr 1303.

[3] Lê Quang Thưởng: Từ điển tổ chức và công tác tổ chức, Nxb CTQGST, Hà nội, 2017, tr 1327

[4] Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,1999, tr 369.

[5] Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam. Trung tâm từ điển Bách khoa Quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội, 2004, tr 244.

[6] Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin,1999, tr 595.

[7] Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, GS Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Hồng Đức, 2019, tr 365-366.

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập,T9, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 508.

[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập,T11, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 607.

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập,T11, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 604.

Nguyễn Duy Thắng - PCN, UBKT Tỉnh ủy
Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập