Đảng bộ tỉnh Lào Cai thực hiện tốt Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý đảng viên vi phạm
Đảng bộ tỉnh Lào Cai có 14
đảng bộ trực thuộc với 615 tổ chức đảng (gồm
272 đảng bộ, 343 chi bộ; trong đó có 2.870 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở),
50.463 đảng viên; có 14 ủy ban kiểm tra (UBKT) đảng ủy trực thuộc tỉnh, với 92
đồng chí ủy viên (chuyên trách 59 đồng chí, kiêm nhiệm là 33 đồng chí); 272 UBKT đảng ủy cơ sở; đối với các chi bộ cơ sở, chi bộ
trực thuộc đều phân công một đồng chí phụ trách công tác kiểm tra, giám sát.
Trong
thời gian vừa qua hệ thống các văn bản hướng dẫn, nghị quyết, quy định về công tác kiểm tra,
giám sát được Trung ương ban hành đồng bộ, đầy đủ, kịp thời đặc biệt là những
quy định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm như: Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ
Chính trị về xử lý đảng viên vi phạm; Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW, ngày 22/3/2018
của Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy định
số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý đảng viên vi phạm.
Căn cứ các quy định của Trung
ương về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, Tỉnh uỷ tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện
và chỉ đạo các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy quán triệt, triển khai thực hiện các
nội dung trong Quy định số 102 và Hướng dẫn số 04 đến 100% các tổ chức đảng và đảng viên trong
toàn Đảng bộ tỉnh. Cho
in 5.200 cuốn Quy định số 102,
Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW, ngày 22/3/2018 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng
dẫn thực hiện một số điều trong Quy định số 102 về xử lý đảng viên vi phạm gửi đến các đồng chí Tỉnh ủy
viên, các chi bộ, đảng bộ trong Đảng bộ tỉnh; các cơ quan tham mưu giúp việc
Tỉnh ủy để triển khai thực hiện. Các cấp ủy, UBKT các cấp trong Đảng bộ tỉnh lấy nội dung Quy định số
102 và Hướng dẫn số 04 làm căn
cứ xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, bảo đảm công minh, chính xác, kịp thời,
đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và thẩm quyền.
Thực hiện Quy định số
102, từ tháng 12/2017 đến nay cấp ủy, chi bộ, Ủy ban Kiểm tra các cấp trong
toàn Đảng bộ tỉnh đã áp dụng các điều của Quy định số 102 trong xem xét, xử lý
kỷ luật 502 đảng viên có vi phạm. Hình thức kỷ luật: khiển trách
373, cảnh cáo 95, cách chức 9, khai trừ 25. Việc vận dụng xử
lý kỷ luật đúng người, đúng nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân
vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu phê bình và
sửa chữa, khuyết điểm, vi phạm, tạo nên sự thống nhất trong xử lý kỷ luật đối
với cùng một nội dung vi phạm. Do đó từ khi thực hiện Quy định số 102 đến nay
không có trường hợp đảng viên khiếu nại kỷ luật Đảng.
Bên cạnh kết quả đã đạt được còn một
số khó khăn, hạn chế đó là: Năng lực, trình độ cấp ủy viên và cán bộ kiểm tra ở
một số cơ sở còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn
cách mạng mới; nguyên tắc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
đảng đôi khi còn bị ràng buộc bởi dòng họ, thân tộc dẫn đến ngại va chạm, ngại
đấu tranh; chất lượng công tác kiểm tra, giám sát có nơi còn thấp, nhiều cuộc
kiểm tra, giám sát do cơ sở thực hiện không phát hiện được sai phạm. Do vậy ảnh
hưởng không nhỏ đến tính chủ động, tính chiến đấu và hiệu quả trong công tác
kiểm tra và phát hiện sai phạm để xử lý đối với đảng viên vi phạm. Mặt khác, ở
một số tổ chức đảng trong công tác quản lý cán bộ theo ngành dọc, do yêu cầu
nhiệm vụ công tác và tổ chức cán bộ luôn thay đổi, nên khi cán bộ, đảng viên có
dấu hiệu vi phạm cần phải kiểm tra để xem xét, xử lý hoặc cần phải xác minh qua
nhiều bước, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân để làm rõ vi phạm; tổ chức
đảng có thẩm quyền chưa kịp kiểm tra, xem xét thì cán bộ, đảng viên đó đã được
điều động nhận nhiệm vụ khác nên đã gây khó khăn cho công tác kiểm tra, xem
xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Trong thang điểm phân xếp loại tổ chức
đảng theo quy định điểm giành cho công tác kiểm tra rất ít, do vậy nếu không
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra bị trừ điểm cũng không ảnh hưởng gì đến tổng số
điểm, cho nên phần nào ảnh hưởng đến công tác kiểm tra. Mặt khác, do sợ ảnh
hưởng thành tích của đảng bộ, địa phương nên có những nơi có đảng viên có thể
có vi phạm nhưng chỉ bị nhắc nhở, phê bình chứ không xem xét, xử lý kỷ luật; Bên
cạnh việc áp dụng thực hiện các điều tại Quy định số 102, lực lượng Công an
nhân dân và Quân đội nhân dân còn áp dụng thực hiện các quy định khác của ngành
trong việc xem xét, xử lý kỷ luật cán bộ, chiến sỹ, đảng viên vi phạm mà chưa
được quy định cụ thể trong Quy định số 102, nên khi ra quyết định xử lý kỷ luật
đảng viên rất khó xác định nội dung vi phạm cụ thể theo Quy định số 102. Một số
lĩnh vực trong quản lý cán bộ, đảng viên theo quy định của pháp luật chưa được
quy định trong Quy định số 102 như: Vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
vi phạm quy định về quản lý tài nguyên khoáng sản, bao gồm tài nguyên rừng, tài
nguyên khoáng sản…, tài nguyên nước, bảo vệ động vật, thực vật quý hiếm, vi
phạm các quy định về văn hóa công sở, quy định về nêu gương…; vi phạm quy định
về quản lý kinh doanh, thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm, bao gồm sản xuất,
kinh doanh, buôn bán và tiêu thụ hàng giả, hàng cấm, hàng hóa thực phẩm không
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, kém chất lượng, nên việc xem xét xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm chưa đảm bảo cơ sở áp dụng hình thức kỷ luật chính xác. Quy định xử lý kỷ luật đảng và xử lý
kỷ luật về chính quyền chưa đồng bộ về nội dung, hình thức và thời hiệu nên khi
xem xét chỉ đạo xử lý kỷ luật đồng bộ giữa kỷ luật đảng, chính quyền, đoàn thể
còn gặp nhiều khó khăn; Một
số từ ngữ trong quy định chưa được giải thích cụ thể (xa hoa..), chưa đồng bộ
với Luật (ngoại tình hay quan hệ bất chính, vay nặng lãi và cho vay lãi xuất
cao..) gây khó khăn khi áp dụng để thị hành kỷ luật.
Trong thời gian tới để thực hiện tốt
hơn nữa công tác thi hành kỷ luật đảng viên nói riêng và công tác kiểm tra,
giám sát nói chung, cần thực hiện một số nội dung sau:
Một là, tiếp
tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt các quy định của Điều lệ Đảng,
các văn bản hướng dẫn của Trung ương về công tác thi hành kỷ luật Đảng nói
chung, việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm nói riêng sâu rộng trong cán bộ,
đảng viên, các tổ chức đảng nhất là cấp cơ sở và dưới cơ sở. Thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016
của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt quy chế làm
việc và Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Hai là, nắm
vững và dự báo tình hình vi phạm của đảng viên, làm tốt công tác thẩm tra, xác
minh, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên, khơi dậy tinh thần đấu tranh,
phê và tự phê bình, tham gia đóng góp xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân và
đảng viên; nâng cao nhận thức cho tổ chức đảng và đảng viên, trước hết là cấp
ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng. Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cấp
ủy và UBKT các cấp trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thi hành
kỷ luật trong Đảng, nhằm giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để đảng viên có
vi phạm thấy được sai sót, khuyết điểm, nhận thức rõ mức độ vi phạm và hình
thức kỷ luật đối với mình là thỏa đáng, để thực sự tâm phục, khẩu phục và chấp
hành nghiêm túc.
Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo, vai trò
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, các tổ chức, tạo sự đoàn kết thống nhất
của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trước hết là từ cơ sở. Hoàn thiện các quy
định của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể
chính trị - xã hội làm cơ sở cho việc chấp hành nghiêm kỷ luật đảng và thi hành
kỷ luật của Ðảng.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát của tổ chức đảng cấp trên đối với tổ chức đảng cấp dưới trong thực hiện
Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII (về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tường chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “ tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”); phát hiện, xử lý kịp thời nghiêm
minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.
Năm
là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá
nhân phụ trách. Phát huy dân chủ, công khai trong Đảng, khơi dậy và phát huy
vai trò, trách nhiệm của đảng viên và quần chúng nhân dân trong công tác xây
dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng nói
riêng./.